Chuyển đổi kỹ thuật số trở thành xu hướng chủ đạo ở Việt Nam

, ,

 Quyết tâm của Việt Nam trong việc thúc đẩy xu hướng toàn cầu về chuyển đổi kỹ thuật số được thể hiện trong tuyên bố của các nhà lãnh đạo, nhận thức chung của người dân và các hành động thực tế.


(Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp đầu tiên của Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số. (Ảnh: VNA)


Hà Nội (VNA) - Quyết tâm của Việt Nam trong việc thúc đẩy xu hướng toàn cầu về chuyển đổi kỹ thuật số được thể hiện trong tuyên bố của các nhà lãnh đạo, nhận thức chung của người dân và các hành động thực tế.


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Cần phải đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế - xã hội số để tạo đột phá nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.”.


Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh sức lan tỏa của việc chuyển đổi số trong xã hội.


Vì việc này có tác động rất lớn tới các hoạt động kinh tế xã hội, nên cần có sự hợp tác giữa Nhà nước và các khu vực tư nhân. Ông cũng nhấn mạnh thêm rằng ba trụ cột chính của chuyển đổi số là chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.


Đảng và Nhà nước có thể hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế số bằng các chính sách và nghị quyết phù hợp.


Việt Nam đã ban hành bộ Luật Công nghệ cao vào năm 2009. Năm năm sau đó, Bộ Chính trị cũng đã ban hành Nghị quyết số 36 về việc “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu về phát triển bền vững và hội nhập quốc tế”.


Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới triển khai chương trình Chuyển đổi số Quốc gia với các mục tiêu như: có 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, tức là cho phép người dùng thanh toán phí trực tuyến thông qua các phương tiện khác nhau, bao gồm điện thoại thông minh; 90% hồ sơ ở cấp bộ và cấp tỉnh và 80% hồ sơ ở cấp huyện sẽ được xử lý trực tuyến vào năm 2025.


Việt Nam cũng hy vọng sẽ nằm trong số 50 quốc gia hàng đầu trong danh sách Chỉ số Phát triển Chính phủ Điện tử của Liên hợp quốc và nằm trong top 30 quốc gia về đổi mới và an ninh mạng. Việt Nam đặt mục tiêu nền kinh tế kỹ thuật số chiếm 20% GDP vào năm 2025.


Tiềm năng 


Với dân số gần 100 triệu người, nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh thứ hai trong khu vực, dân số trẻ năng động và có khả năng tiếp cận nhanh với công nghệ cao, các chuyên gia đánh giá Việt Nam có tiềm năng gặt hái được nhiều lợi ích từ chuyển đổi số.


Việt Nam đã ký kết 17 hiệp định thương mại tự do với hơn 60 quốc gia, bao gồm cả các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.


Theo báo cáo về tiềm năng số của Việt Nam do công ty tư vấn kinh tế chiến lược AlphaBeta thực hiện, nếu Việt Nam có thể khai thác tối đa các lợi ích của công nghệ số, nó có thể mang lại giá trị kinh tế lên tới 74 tỷ USD vào năm 2030, tương đương 27% GDP cả nước trong năm 2020. 


Bản báo cáo này cũng chỉ ra tám công nghệ chủ chốt cho nền kinh tế số tại Việt Nam: Internet di động, điện toán đám mây, big data, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ tài chính (Fintech), Internet vạn vật (IoT) và viễn thám, chế tạo rô bốt và in 3D.


Việt Nam có rất nhiều lợi thế để phát triển một nền kinh tế số, ví dụ như Việt Nam có 70% công dân dưới 35 tuổi, có trình độ học vấn và hiểu biết về công nghệ; tỷ lệ biết chữ của người dân trong độ tuổi từ 15 đến 35 là trên 98%; và khoảng 70% dân số sử dụng điện thoại thông minh.


Một khách hàng đang sử dụng SmartPay để thanh toán. (Ảnh: baotintuc.vn)


Lĩnh vực giáo dục cũng đã đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, học tập, quản lý và đã thu được nhiều kết quả tích cực trong thời gian qua.


Báo cáo PISA năm 2020 do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) công bố cho thấy, việc học trực tuyến của học sinh, sinh viên tại Việt Nam theo quy định phòng, chống COVID-19 có nhiều điểm tích cực so với các nước và vùng lãnh thổ. Cụ thể, Việt Nam có 79,7% học sinh trung học học trực tuyến, cao hơn mức trung bình của OECD (67,5%).


Đại dịch COVID-19 đã tác động tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, nhưng cũng đồng thời tạo ra những cơ hội đặc biệt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua ứng dụng công nghệ, đổi mới và số hóa.


Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng cho biết: có khoảng 5.600 doanh nghiệp công nghệ số được thành lập trong năm nay, nâng tổng số lên 64.000 doanh nghiệp. Tổng doanh thu của họ ước tính đạt 135 tỷ USD trong năm 2021, tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái.


Trích lời ông Nguyễn Mạnh Hùng: “Doanh nghiệp kỹ thuật số là cốt lõi thúc đẩy chuyển đổi số tại Việt Nam bằng việc chuyển đổi tất cả các doanh nghiệp Việt Nam thành doanh nghiệp số, tất cả các tổ chức Việt Nam thành tổ chức số và mọi công dân thành công dân số”.


Phạm vi tiếp cận rộng


Đánh giá về phạm vi tiếp cận của quá trình chuyển đổi số, ông Võ Quang Lâm, Phó Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, hệ thống điện quốc gia đã cung cấp điện cho 29,5 triệu khách hàng, trong đó 50% đã lắp đặt công tơ điện tử để đọc dữ liệu từ xa. Từ năm 2012, EVN đã sử dụng hóa đơn điện tử và cung cấp dịch vụ điện tương tự dịch vụ công mức độ 4.


Theo báo cáo e-Conomy khu vực Đông Nam Á của Google, Temasek và Bain & Company, Việt Nam dẫn đầu khu vực về tốc độ tăng trưởng số với tốc độ trung bình 27% trong giai đoạn 2015-2020. Nền kinh số của đất nước đã tăng từ 3 tỷ USD năm 2015 lên 12 tỷ USD và 14 tỷ USD vào năm 2019 và 2020.


Bà Nguyễn Thị Hồng, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho biết, việc thanh toán qua điện thoại di động tại Việt Nam đã tăng 90% về số lượng và 150% về giá trị mỗi năm.


Một cuộc khảo sát khác của công ty tư vấn McKinsey cho thấy: tỷ lệ khách hàng Việt Nam sử dụng các công cụ ngân hàng kỹ thuật số ít nhất một lần mỗi tháng đã tăng gấp đôi từ 41% vào năm 2017 lên 82% vào năm 2021, đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường có tốc độ phát triển nhanh nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương về lĩnh vực ngân hàng số.


Thủ tướng Chính phủ cho biết, việc cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và căn cước công dân đã đi vào hoạt động là một bước tiến quan trọng trong việc đổi mới lĩnh vực quản trị điện tử để đáp ứng nhu cầu hội nhập với các quốc gia trong khu vực và trên quốc tế, góp phần đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia.


Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là cơ sở dữ liệu quan trọng nhất giúp hình thành Chính phủ điện tử, xã hội số và nền kinh tế số.


Thẻ bảo hiểm y tế sẽ được tích hợp vào thẻ căn cước công dân bằng chip điện tử. (Ảnh: Vietnam Plus)


Thách thức trước mắt


Bên cạnh những thành tựu mà chúng ta đã đạt được ở cả ba trụ cột của quá trình chuyển đổi số: chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, quá trình chuyển đổi của nước ta vẫn còn tồn tại những khó khăn cần được tháo gỡ. Các chuyên gia cũng cho rằng, xếp hạng Quản trị điện tử của Việt Nam hiện vẫn còn thấp.


Mặc dù Việt Nam đã tăng hai bậc lên vị trí thứ 86 trong bảng xếp hạng chỉ số tăng trưởng chính phủ điện tử toàn cầu năm 2020, Việt Nam vẫn đang đứng thứ sáu ở Đông Nam Á, xếp sau Singapore, Malaysia, Thái Lan, Brunei và Philippines.


Các doanh nghiệp tại Việt Nam nói chung, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), chiếm 98.1% tổng số công ty ở Việt Nam và đóng góp tới 45% GDP của cả nước. Tuy nhiên, họ vẫn chưa nhận thức được đầy đủ về vai trò của chuyển đổi số trong Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.


Trong khi chuyển đổi số được coi là giải pháp then chốt để giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tồn tại, một cuộc khảo sát của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Việt Nam (VINASA) cho thấy 69% doanh nghiệp được khảo sát không biết lựa chọn đối tác nào để thực hiện quá trình chuyển đổi số của mình, 72% không biết bắt đầu từ đâu và 92% không biết chuyển đổi kỹ thuật số đòi hỏi gì.


Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng chi phí đầu tư là rào cản hàng đầu đối với quá trình số hóa của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.


Trên thực tế, vẫn có sự khác biệt trong việc thực hiện chuyển đổi số giữa các doanh nghiệp quy mô lớn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này có thể được lý giải bởi việc các doanh nghiệp lớn có lợi thế hơn về vốn và quy mô sản xuất. Vậy nên, họ áp dụng công nghệ trong thời gian ngắn, kể cả khi chi phí thực hiện là rất cao. Trong khi đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải cân nhắc kỹ lưỡng các lợi ích ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, cũng như khả năng tiếp cận nguồn vốn cần thiết để thực hiện quy trình này.


Một báo cáo năm 2021 về chuyển đổi doanh nghiệp do Cục Phát triển Doanh nghiệp thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Dự án USAID LinkSME thực hiện cho biết: có tới 60% trong tổng số 1.300 doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết chi phí cho công nghệ kỹ thuật số là một trở ngại lớn, đặc biệt là sau đại dịch COVID-19, khi mà doanh thu và khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp đã bị giảm.


Thay đổi thói quen và tư duy kinh doanh cũng là một trở ngại đang kể. Một số doanh nghiệp cho biết, sau khi áp dụng các phần mềm, nhân viên gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng, thậm chí từ chối dùng các phần mềm đó. Điều này khiến cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc đạt được mục tiêu chuyển đổi số.


Giải pháp


Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cho rằng, chuyển đổi số giống như một cuộc cách mạng về thể chế hơn là một cuộc cách mạng về công nghệ, vì vậy Chính phủ cần phải đi đầu, thúc đẩy việc xây dựng thể chế số. Ông đã phát biểu: “Chỉ khi áp dụng đổi mới và sáng tạo, Việt Nam mới có thể thoát khỏi mức thu nhập trung bình.


Thủ tướng Phạm Minh Chính (thứ ba từ phải sang) và Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng (thứ tư từ phải sang) trao giải cho 4 sản phẩm đạt giải vàng Giải thưởng Sản phẩm số Made in Vietnam 2021 tại buổi lễ diễn ra ngày 11/12. . (Ảnh: VNA)


Trước những thách thức về mặt tư duy trong chuyển đổi kỹ thuật số, ông Nguyễn Đức Hải, Giám đốc LitCommerce, cho biết: bắt buộc phải xác định đầu vào và đầu ra, sau đó mô hình hóa tất cả các khía cạnh của doanh nghiệp cho phù hợp


Ông Nguyễn Đức Thuận, Phó Chủ tịch Hiệp hội các Giám đốc Doanh nghiệp Việt Nam, đề xuất: để giúp các doanh nghiệp thành công trong chuyển đổi số, cần biên soạn một bộ tài liệu hướng dẫn.


Phát biểu tại diễn đàn “Tiếp cận mới để doanh nghiệp chuyển đổi số - Làm đúng để thành công” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức mới đây, ông Nguyễn Đức Thuận cho biết giải pháp quan trọng nhất là doanh nghiệp cần phải được hỗ trợ lựa chọn sử dụng các công cụ công nghệ gắn với chuyển đổi kỹ thuật số. Ông Thuận cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập một hệ thống điều phối và các nhóm chuyên gia hỗ trợ các công ty trong quá trình này.


Trong phiên thảo luận thứ ba của “Diễn đàn quốc gia về phát triển doanh nghiệp số tại Việt Nam” diễn ra tại Hà Nội ngày 11/12, Thủ tướng Chính phủ cho rằng chuyển đổi số là xu hướng toàn cầu, phục vụ cho mọi người dân, do đó, chúng ta cần phải có cách tiếp cận toàn cầu và hướng tới con người. Ông cũng xác định sáu khía cạnh chính của quá trình này bao gồm: nâng cao nhận thức; hoàn thiện thể chế; phát triển doanh nghiệp công nghệ số; phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật số; và phát triển cơ sở hạ tầng.


Thủ tướng nhấn mạnh, phải tăng cường vai trò quản lý Nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghệ số phát triển.